Yên Nhật

Yên Nhật
Â¥
Yên là tiền tệ chính thức của Nhật Bản. Đây là loại tiền được giao dịch nhiều thứ ba trên thị trường ngoại hối sau đồng đô la Mỹ và đồng euro. Nó cũng được sử dụng rộng rãi như một loại tiền tệ dự trữ sau đồng đô la Mỹ, đồng euro và bảng Anh.

Khái niệm đồng Yên là một thành phần của chương trình hiện đại hóa của chính phủ Minh Trị đối với nền kinh tế Nhật Bản, trong đó quy định việc thành lập đồng tiền thống nhất trong cả nước, được mô phỏng theo hệ thống tiền tệ thập phân châu Âu. Trước khi có Minh Trị duy tân, những khu vực cát cứ phong kiến của Nhật Bản đều phát hành tiền riêng của họ, hansatsu (藩札 phiên trát), với một loạt các mệnh giá không tương thích. Đạo luật tiền tệ mới năm 1871 đã loại bỏ những loại tiền này và thiết lập đồng yên, được định nghĩa là 1,5 g vàng, hoặc 24,26 g bạc, là đơn vị tiền tệ thập phân mới. Các cựu khu vực cát cứ đã trở thành các tỉnh và các kho sản xuất tiền đã trở thành các ngân hàng tư nhân cấp tỉnh, ban đầu vẫn giữ quyền in tiền. Để chấm dứt tình trạng này, Ngân hàng Nhật Bản được thành lập vào năm 1882 và độc quyền kiểm soát nguồn cung tiền.

Sau khi mất giá bạc năm 1873, đồng yên mất giá so với đô la Mỹ và đô la Canada (vì hai quốc gia này tuân thủ tiêu chuẩn vàng), và đến năm 1897, đồng Yên chỉ có giá trị khoảng 0,5 đô la Mỹ. Vào năm đó, Nhật Bản đã áp dụng tiêu chuẩn trao đổi vàng và do đó đóng băng giá trị của đồng Yên ở mức 0,5 đô la. Tỷ giá này vẫn duy trì cho đến khi Nhật Bản rời khỏi tiêu chuẩn vàng vào tháng 12 năm 1931, sau đó đồng Yên giảm xuống 0,30 đô la vào tháng 7 năm 1932 và xuống còn 0,20 đô la vào năm 1933. Nó vẫn ổn định ở mức khoảng 0,30 đô la cho đến khi bắt đầu Chiến tranh Thái Bình Dương vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, lúc đó nó đã giảm xuống còn 0,23 đô la.

Sau Thế chiến II, đồng Yên mất phần lớn giá trị nó có trước chiến tranh. Để ổn định nền kinh tế Nhật Bản, tỷ giá hối đoái của đồng Yên đã được cố định ở mức ¥360 ăn 1 đô la Mỹ như một phần của hệ thống Bretton Woods. Khi hệ thống này bị bỏ rơi vào năm 1971, đồng Yên đã bị định giá thấp và được phép thả nổi. Đồng Yên đã tăng giá lên mức cao nhất ¥ 271 mỗi đô la Mỹ vào năm 1973, sau đó trải qua thời kỳ mất giá và đánh giá cao do cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, đạt giá trị ¥ 227 mỗi đô la Mỹ vào năm 1980.

Từ năm 1973, chính phủ Nhật Bản đã duy trì chính sách can thiệp tiền tệ và đồng Yên do đó theo chế độ " thả nổi có kiểm soát". Chính phủ Nhật Bản tập trung vào một thị trường xuất khẩu cạnh tranh, và cố gắng đảm bảo tỷ giá hối đoái thấp cho đồng Yên thông qua thặng dư thương mại. Hiệp định Plaza năm 1985 tạm thời thay đổi tình trạng này: tỷ giá hối đoái giảm từ mức trung bình ¥239/1 đô la Mỹ năm 1985 xuống còn ¥128 vào năm 1988 và dẫn đến tỷ lệ cao nhất là ¥80 so với đô la Mỹ năm 1995, làm tăng giá trị một cách hiệu quả GDP của Nhật Bản tính theo đồng đô la Mỹ cao ngang với GDP của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, kể từ thời điểm đó, giá đồng Yên thế giới đã giảm đáng kể. Ngân hàng Nhật Bản duy trì chính sách lãi suất từ 0 đến gần 0 và chính phủ Nhật Bản trước đây đã có chính sách chống lạm phát nghiêm ngặt.

Xuất phát Yên từ chữ 圓 (viên) nghĩa đen là "tròn" (như trong từ "viên đá", "viên bi"), vốn mượn cách đọc ngữ âm từ đồng nhân dân tệ của Trung Quốc, tương tự như đồng won của Bắc Triều Tiên và đồng won của Hàn Quốc. Ban đầu, người Trung Quốc đã buôn bạc với số lượng lớn gọi là "tệ" (trong từ "Tiền tệ") và khi đồng xu bạc của Tây Ban Nha và Mexico đến nước này, người Trung Quốc gọi chúng là "vòng bạc" (銀圓) vì hình dạng tròn của chúng. Tiền xu và tên này sau đó cũng xuất hiện ở Nhật Bản. Both characters have the same pronunciation in Mandarin, but not in Japanese. In 1695, certain Japanese coins were issued whose surface has the character, but this is an abbreviation of the era name .}}, Nhật Bản tiếp tục sử dụng cùng một từ cũ, mà được viết dạng shinjitai dạng 円 khi cải cách chữ viết vào cuối Thế chiến II.

Chính tả và phát âm "yen" là tiêu chuẩn trong tiếng Anh vì khi Nhật Bản lần đầu tiên gặp phải người châu Âu vào khoảng thế kỷ 16, Nhật Bản え) và (ゑ) cả hai đều được phát âm là và các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã đánh vần là "ye". Vào giữa thế kỷ 18, và được phát âm là như trong tiếng Nhật hiện đại, mặc dù một số vùng vẫn giữ cách phát âm . Walter Henry Medhurst, người không đến Nhật Bản hay gặp bất kỳ người Nhật nào, đã tham khảo chủ yếu từ điển Nhật-Hà Lan, đánh vần một số từ "e" là "ye" trong An English and Japanese, and Japanese and English Vocabulary của ông(1830). Vào đầu thời đại Meiji, James Curtis Hepburn, người theo sau Medhurst, đã đánh vần tất cả các chữ "e" là "ye" trong từ điển tiếng Nhật và tiếng Anh (1867); trong tiếng Nhật, e và i phát âm hơi giống tiếng Nga. Đó là từ điển Nhật-Anh / Anh-Nhật quy mô đầy đủ đầu tiên, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến người phương Tây ở Nhật Bản và có lẽ đã gợi ra cách đánh vần "yen". Hepburn đã sửa đổi hầu hết các "ye" thành "e" trong phiên bản thứ 3 (1886) để phản ánh cách phát âm đương đại, ngoại trừ "yen". Điều này có lẽ đã được cố định và vẫn duy trì như vậy kể từ đó.

Quốc gia