Đô la Hồng Kông

Đô la Hồng Kông
$
Đô la Hồng Kông (tiếng Trung: 港元; phiên âm Quảng Đông: góng yùn; Hán-Việt: cảng nguyên; ký hiệu: HK$; mã ISO 4217: HKD) là tiền tệ chính thức của Đặc khu Hành chính Hồng Kông. Một đô la được chia làm 100 cents. Cục quản lý tiền tệ Hồng Kông là cơ quan tiền tệ của Chính phủ Hồng Kông, đồng thời là ngân hàng trung ương quản lý Đô la Hồng Kông.

Dưới sự cho phép của Cục quản lý tiền tệ Hồng Kông, ba ngân hàng thương mại lớn đã được cấp phép để phát hành tiền giấy phục vụ cho việc lưu thông trong công chúng. Ba ngân hàng thương mại bao gồm HSBC, Ngân hàng Trung Quốc (Hồng Kông), Standard Chartered (Hồng Kông) phát hành tiền giấy có thiết kế riêng bao gồm các mệnh giá HK$20, HK$50, HK$100, HK$500 và HK$1000, với các thiết kế giống với các tờ tiền khác có cùng mệnh giá. Tiền giấy mệnh giá HK$10 và tất cả mệnh giá tiền xu được phát hành bởi Chính quyền Hồng Kông.

Tháng 4 năm 2016, Đô la Hồng Kông là tiền tệ phổ biến thứ mười ba trên Thị trường ngoại hối. Ngoài việc được sử dụng tại Hồng Kông, Đô la Hồng Kông còn được sử dụng tại hàng xóm của họ, Đặc khu hành chính Ma Cao. Đồng Pataca Ma Cao được neo vào Đô la Hồng Kông.

Khi Hồng Kông bắt đầu trở thành một khu vực giao thương tự do từ năm 1841, tại đây chưa có một đơn vị tiền tệ chính thức trong lưu thông hằng ngày. Các đồng tiền thường được sử dụng là Rupee Ấn Độ, đồng 8 reales của Tây Ban Nha và Mexico, và sử dụng tiền xu của Trung Quốc. Từ năm 1825, Chính quyền Anh Quốc đã ban hành một chính sách phát hành tiền xu làm bằng Bạc sterling sử dụng cho tất cả các thuộc địa. Đồng 8 reales của Tây Ban Nha và Mexico vẫn được xem là phương tiện thanh toán hợp pháp là được quy đổi sang 4 shillings và 2 pence Bảng. Giống với trường hợp của Bắc Mỹ thuộc Anh, việc phát hành hệ thống tiền theo hệ thống Bảng thất bại vì sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống Đô la Tây Ban Nha.

Năm 1858, Chính quyền Anh Quốc từ bỏ việc gây ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ tại Canada, và vào những năm 1860 việc tương tự xảy ra tại Hồng Kông: đã không có tác dụng gì trong việc thay thế một hệ thống tiền tệ đã có sẵn. Năm 1863, Sở Đúc tiền Hoàng Gia tại London bắt đầu phát hành loại tiền tệ đặc biệt dành cho Hồng Kông sử dụng hệ thống Đô la. Năm 1866, một mỏ đúc tiền địa phương đã được thành lập tại Sugar Street, vịnh Causeway, đảo Hồng Kông nằm phát hành đồng silver dollar và half dollar có mệnh giá tương đương với và có điểm gần giống với các đối tác từ Mexico. Người Trung Quốc đã đón nhận những đồng đô la này một cách không mấy tốt đẹp, và đến năm 1868 Sở Đúc tiền Hồng Kông đã phải đóng cửa sau khi thua lỗ $440,000. Những máy móc của cơ sở này đã được thanh lý cho Jardine Matheson. Sau đó Hồng Kông chuyển sang dùng Yên Nhật và đồng tiền xu đồng tiên được phát hành vào năm 1870. Vào những năm 1860, tiền giấy của các ngân hàng thuộc địa Anh, Hong Kong and Shanghai Banking Corporation và Chartered Bank of India, Australia and China, có các mệnh giá dưới tên gọi dollar, và trở thành phương tiện thanh toán của cả Hồng Kông lẫn các khu vực rộng lớn hơn.

Năm 1873, cuộc khủng hoảng bạc quốc tế dẫn đến sự mất giá của bạc so với các đồng tiền gắn với vàng. Từ khi đồng đô la bạc tại Mỹ và Canada chuyến tỉ giá hối đoái sang gắn với vàng, điều đó muốn nói đến rằng các đồng silver dollar sử dụng tại ven biển Trung Hoa đã mất giá so với đồng Đô la Mỹ và Đô la Canada.

Năm 1895, để phù hợp với tình hình hiện tại, sau cái chết của đồng Đô la Mexico, chính quyền Hồng Kông và Các khu định cư Eo biển đã gây sức ép lên chính quyền London nhằm thuyết phục họ cho phép lưu hành đồng silver dollar. Chính quyền London đã chấp nhận hợp pháp việc điều chỉnh đồng tiền. Đồng Đô la thương mại mới đã được đúc tại các sở đúc tiền Calcutta và Bombay nhằm phục vụ cho việc sử dụng ở Hồng Kông và ở Các khu định cư Eo biển. Năm 1906, chính quyền Các khu định cư Eo biển đã ra mắt đồng silver dollar riêng của họ và neo nó vào tỉ giá gold sterling với tỉ giá hối đoái 2 shillings và 4 pence. Từ thời điểm này đã hình thành sự khác nhau giữa tiền tệ của Hồng Kông và tiền tệ của khu Eo biển.

Năm 1935, chỉ còn Hồng Kông và Trung Quốc vẫn còn sử dụng bản vị bạc. Vào năm đó, Hồng Kông, một thời gian ngắn sau Trung Quốc, đồng silver dollar bị ngưng phát hành và bị trượt giá từ £1 = HK$15.36 lên đến HK$16.45. Từ thời điểm này khái niệm Đô la Hồng Kông là một đơn vị tiền tệ khác biệt đã ra đời. Pháp lệnh về Tờ tiền 1 đô la đã dẫn đến việc cho ra mắt tờ 1 đô la bởi chính quyền. Chính quyền hiểu rằng đô la mới này sẽ được sử dụng như một đơn vị tiền tệ địa phương. Nhưng đến tận năm 1937 Đô la Hồng Kông mới được xem là phương tiện thanh toán hợp pháp một cách chính thức. Năm 1939, đô la Hồng Kông được neo vào đồng Bảng Anh với tỉ giá HK$16 = £1 ($1 = 1s 3d).

Trong giai đoạn Nhật Bản chiếm đóng Hồng Kông, đồng Yên Quân đội Nhật Bản là đơn vị tiền tệ duy nhất trong giao dịch phổ thông tại Hồng Kông. Khi đồng Yên đầu tiên được phát hành vào ngày 26 tháng 12 năm 1941, tỉ giá hối đoái là ¥1 = HK$2. Đến tháng 8 năm 1942, tỉ giá đã được thay đổi thành HK$4 đổi ¥1. Đồng yên chính thức trở thành phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất vào ngày 1 tháng 6 năm 1943. Đồng tiền địa phương đã được phát hành trở lại bởi Chính quyền Hồng Kông và những ngân hàng địa phương được uỷ quyền sau khi giành độc lập lại từ Nhật, với tỉ giá trước chiến tranh 1£ = HK$16 được hoàn lại. Đồng Yên được quy đổi với tỉ giá ¥100 = $1. Ngày 6 tháng 9 năm 1945, tất cả đồng Yên Quân đội được sử dụng trong thời kỳ chiếm đóng đều được thu hồi và tiêu huỷ bởi Bộ Tài chính Nhật Bản.

Năm 1967, khi mà đồng bảng Anh mất giá, tỉ giá neo vào đã được thay đổi từ 1s 3d đến 1s  4 1⁄2d ($14.5455 = £1) mặc dù đều này không ngăn chặn được sự mất giá của đồng tiền. Năm 1972, Đô la Hồng Kông đã được neo vào Đô la Mỹ với tỉ giá HK5.65$ = 1$. Từ năm 1974 đến năm 1983, đồng Đô la Hồng Kông đã liên tiếp trượt giá. Ngày 17 tháng 10 năm 1983, tỉ giá đã tăng đến mức HK$7.8 = $1, thông qua Hệ thống tiền tệ.
Quốc gia