Tiếng Pali

Tiếng Pali
Pāli (????) còn gọi là Nam Phạn, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Tam tạng (tên theo tiếng Nam Phạn là Tipitaka). Chữ Nam Phạn được đúc kết từ mấy nguồn hệ thống chữ viết khác nhau, từ chữ Brahmi, Devanāgarī và các chữ viết thuộc hệ Ấn-Aryan. Khi Latinh hóa thì hệ thống do T. W. Rhys Davids thuộc Pali Text Society khởi xướng được dùng nhiều hơn cả.

Bản thân từ Pāli có nghĩa là "hàng chữ" hay "văn bản (chính tắc)", và tên gọi này dường như bắt nguồn từ các truyền thống chú giải, trong đó Pāli (theo nghĩa các hàng chữ hay văn bản nguyên gốc được trích dẫn) được phân biệt với các câu chú giải hay là các câu bằng tiếng bản xứ theo sau đó trên trang bản viết. Do đó, tên gọi của ngôn ngữ này đã gây ra nhiều tranh luận giữa các học giả thuộc mọi thời đại; cách viết của tên cũng khác nhau, với "ā" ([ɑː]) dài và "a" ([a]) ngắn, cũng như với âm bật lưỡi (retroflex) ([ɭ]) hay là không có âm bật lưỡi ([l]) "l". Cho đến ngày nay, không có một cách viết chuẩn duy nhất của tên của ngôn ngữ này; cả bốn cách viết có thể tìm thấy trong các sách giáo khoa.

Pāli là ngôn ngữ văn chương của nhóm ngôn ngữ Prakrit; nó không phải (và chưa bao giờ) là một ngôn ngữ nói thông thường, theo nghĩa của một ngôn ngữ mẹ đẻ. Mặc dù có nhiều nghiên cứu xuất sắc về vấn đề này, vẫn thường có sự nhầm lẫn về các liên hệ giữa Pāli và tiếng bản xứ của tiếng Magadha cổ đại.

Pāli được những người theo Phật giáo thời xa xưa coi là tương đồng về mặt ngôn ngữ với tiếng Magadha cổ hay là sự nối tiếp trực tiếp của ngôn ngữ đó. Nhiều nguồn Theravada nhắc đến tiếng Pāli như là "tiếng Magadha". Tuy nhiên, dòng chữ khắc trên đá bằng tiếng Magadha của A-dục vương (Asoka) là một ngôn ngữ Đông Ấn trong khi đó Pāli giống với các chữ khắc bằng tiếng Tây Ấn hơn.

Có nhiều sự giống nhau đáng kể giữa Pali và một dạng cổ của Magadha - Ardhamagadha (Bán Magadha) - được bảo lưu trong các văn bản đạo Jain cổ. Ardhamagadha khác với Magadha cũng trong các điểm tương tự như là với Pali. Chẳng hạn, Ardhamagadha cũng không biến đổi r thành l, và trong biến tố danh từ nó cho thấy -o ở cuối thay vì -e như tiếng Magadha ít nhất là trong nhiều nơi có vần điệu. Điều tương tự này không phải là ngẫu nhiên, bởi vì người sáng lập ra đạo Jain Mahavira cũng truyền đạo trên cùng một khu vực (Magadha) với Phật Thích Ca.

Oskar von Hinuber đã cho rằng Pāli có thể bắt nguồn như là một dạng lingua franca (ngôn ngữ thương mại) vào thời đại đế chế Maurya của A-dục vương. Cho đến thời điểm Phật giáo truyền sang Sri Lanka (bởi các nhà truyền giáo mà vua A-dục vương phái đi), theo như các nguồn trong kinh Phật), Pāli là một ngôn ngữ văn chương đủ phức tạp để được sử dụng trong việc ghi lại toàn bộ Tam tạng. Sau khi Bộ kinh Pāli được truyền sang Sri Lanka, nó tiếp tục được bảo quản hoàn toàn bằng tiếng Pāli, trong khi các chú giải đi kèm theo nó (theo thông tin cung cấp bởi Buddhaghosa) được dịch sang tiếng Sinhala và được bảo quản trong tiếng địa phương qua nhiều đời khác nhau.

Tuy nhiên nó cuối cùng đã bị tiếng Sanskrit thay thế trong vai trò một ngôn ngữ văn chương và tôn giáo sau khi các học giả Pānini ở Ấn Độ hình thức hóa tiếng Phạn cổ điển. Ở Sri Lanka, Pāli được cho là đã vào giai đoạn thoái trào vào khoảng thế kỉ thứ 5 (khi tiếng Sanskrit đạt đến đỉnh cao), nhưng rồi cuối cùng vẫn tồn tại. Tác phẩm của Buddhaghosa đóng vai trò quan trọng cho sự hồi sinh trở lại của Pali như là một ngôn ngữ quan trọng của Phật giáo. Bộ Visuddhimagga cùng các tác phẩm bình chú khác mà Buddhaghosa biên dịch đã hệ thống hóa và làm gọn lại những chú giải truyền thống bằng tiếng Sinhala, vốn đã được duy trì và mở rộng ở Sri Lanka từ thế kỉ thứ 3.

Ngày nay Pāli được nghiên cứu chủ yếu là để tìm hiểu các bộ kinh của Phật giáo Tiểu Thừa, và thường được sử dụng để tụng niệm trong các nghi thức tế lễ. Các văn thư thông thường liên quan đến tôn giáo bằng tiếng Pāli như sử ký, y thư, văn bia, cũng có giá trị lịch sử quan trọng. Các trung tâm lớn nghiên cứu bằng tiếng Pāli vẫn tồn tại ở các nước có truyền thống Theravada ở Đông Nam Á: Myanma, Sri Lanka, Thái Lan, Lào và Campuchia. Học thuật Pāli ở vùng Bắc Ấn Độ nhìn chung là kết thúc với sự trỗi dậy của triều đại Sena, và đi xuống tại vùng bán đảo Ấn Độ, và có lẽ kéo dài nhất tại bang Orissa, nghĩa là, cuối cùng kết thúc (cùng với sự thực hành Phật giáo) với sự thất bại của cuộc kháng chiến cuối cùng trước sự bành trướng của các đế quốc Hồi giáo trên tiểu lục địa Ấn Độ. Kể từ thế kỉ thứ 19, nhiều hội đoàn phục hưng việc nghiên cứu Pāli ở Ấn Độ đã quảng bá nhận thức về ngôn ngữ này và nền văn học của nó, có lẽ đáng kể nhất là Maha Bodhi Society thành lập bởi Anagarika Dhammapala.

Ở châu Âu, Pali Text Society là lực lượng chính cùng với các học giả phương Tây quảng bá việc nghiên cứu tiếng Pāli kể từ ngày thành lập vào năm 1881. Đặt trụ sở tại Anh, hội này đã xuất bản các sách Pāli phiên ra tiếng Latinh, cùng với nhiều bản dịch tiếng Anh của các nguồn này. Pali Text Society được lập ra một phần để bù đắp cho kinh phí rất thấp dành cho ngành Ấn Độ học vào cuối thế kỉ 19 ở Anh; một cách phi lý là người Anh không mạnh mẽ trong việc nghiên cứu tiếng Phạn và Prakrit như là ở Đức, Nga và ngay cả Đan Mạch - một thực tế kéo dài đến tận ngày nay. Không cần phải là xứ thuộc địa như là trường hợp người Anh với Sri Lanka và Mayanma, các viện nghiên cứu như Thư viện Hoàng gia Đan Mạch đã xây dựng một bộ sưu tập lớn các văn bản tiếng Pāli, và xây dựng một truyền thống nghiên cứu tiếng Pāli khá mạnh.